Việc nhìn thấy và gặp người cá đã xảy ra từ hàng thế kỷ. Nhiều người đã
nhìn thấy và gặp người cá trong đó có Christopher Columbus, William
Shakespeare, và Pliny the Elder
Mọi người đang đặt câu hỏi liệu người cá có tồn tại hay không?
Bức tranh “Một người cá” của John William Waterhouse được vẽ vào năm 1901.
Lục lại lịch sử có thể thấy rằng nhiều người trên thế giới đã nhìn thấy
hay thậm chí trực tiếp gặp những người cá, trong đó có Christopher
Columbus, John Smith, và William Shakespeare.
Thế kỷ đầu tiên sau Công Nguyên: Pliny the Elder viết
về Nữ thần biển, hay những người phụ nữ có thân hình gồ ghề, có vảy như
cá. Họ “cưỡi cá heo, quái vật biển, hay ngựa biển” trong một số trường
hợp, ông viết trong cuốn
Lịch sử tự nhiên (Natural History)
Pliny đã miêu tả cách mà một người lính Pháp viết cho Hoàng đế Augustus
về “một số đáng kể những nữ thần biển” được “tìm thấy đã chết trên bờ
biển”. Hơn nữa, “Tôi cũng có một số thông tin khác nhau từ đội ngũ lính
cưỡi ngựa, nói rằng chính họ đã từng nhìn thấy một người đàn ông biển cả
trong đại dương ở Gades,” Plity viết, theo một bản dịch của Trường đại
học Chicago.
(Chú thích: Gades là tên vào thời Đế chế La Mã của Cádiz, là thành phố và hải cảng tỉnh Cádiz, phía Tây Nam Tây Ban Nha.)
Thế kỷ thứ 5 sau Công Nguyên: Trong cuốn sách
Physiologus, được
cho rằng được viết hay biên soạn ở Hy Lạp bởi một tác giả không được
biết đến, có một phần miêu tả “Bản tính của người cá” được dịch bởi sinh
viên Mary Allyson Armistead như sau:
(Chú thích: Sách Physiologus bao gồm những mô tả về động vật, chim
và các sinh vật kỳ quái, thỉnh thoảng có đá và cây trồng. Mỗi con vật
được mô tả và kèm theo một giai thoại giải thích nguồn gốc các đặc tính
của con vật.)
“Trên biển có nhiều người cá.
Người cá giống như một thiếu nữ:
Ngực và cơ thể cô giống như vậy:
Từ rốn trở xuống cô không giống thiếu nữ.
Mà rất giống cá với vây cá mọc ra.
Sinh vật kỳ lạ này sống ở một nơi không cố định nơi nước rút.
Cô làm chìm tàu và gây đau khổ,
Cô hát rất ngọt ngào – nàng tiên cá – và có rất nhiều giọng.
Nhiều và ngân vang, nhưng chúng rất nguy hiểm.
Thủy thủ quên lái tàu vì giọng hát của cô;
Họ thiu thiu, ngủ và thức dậy rất trễ,
Và các con tàu chìm xuống vùng nước xoáy và không thể nổi lên nữa.
Nhưng những người đàn ông thông minh và cẩn trọng có thể trở về;
Thông thường họ thoát khỏi với tất cả sức mạnh họ có.
Họ kể về nàng tiên cá này, rằng cô ấy rất kỳ quái,
Nửa người nửa cá: điều gì đó có nghĩa như vậy.”
Bức tranh “Nàng tiên cá và thần đồng áng” của Sergey Solomko được hoàn thành vào năm 1904.
Khoảng năm 1040 đến 1105: Rabbi Shlomo Yitzchaki, hay Rashi, mô tả các người cá trong
Talmud. (
Ghi chú: Tamud là tập hợp những văn bản cổ về luật và truyền thống Do thái)
“Có cá trong biển với một nửa là hình dạng người, một nửa là hình dạng
cá, được gọi là sereine (nàng tiên cá) trong tiếng Pháp cổ”, ông viết.
Cũng vậy, không lâu sau đó, Moshav Zekeinim, một bài bình luận về
Torah (Ghi chú: Torah là một khái niệm trung tâm của truyền thống người Do Thái, gồm 5 quyển sách của Moses), giải thích về những người cá khi gọi họ là các nàng tiên cá, theo sách
Các quái vật thần thánh (Sacred Monsters).
Bài bình luận có viết: “Điều này đề cấp đến một sinh vật trong biển có
một phần giống người, từ rốn trở lên, và giống một người phụ nữ ở mọi
khía cạnh, có ngực và tóc dài giống phụ nữ, và từ rốn trở xuống là cá.
Và nó hát rất hay, với một giọng dịu dàng.”
Thế kỷ thứ 13:
Bartholomew Angelicus, trong
De Propietatibus Rerum, mô tả một người cá và kể về việc bắt cóc các thủy thủ từ tàu của họ.
Giữa thế kỷ thứ 13:
Speculum Regale, hay
The King’s Mirror (Chiếc gương của nhà vua), được viết ở Na Uy cũ, một bản dịch đã ra đời sau nhiều thế kỷ sau.
Trong quyển sách có mô rả một sinh vật được tìm thấy ở bờ biển Greenland.
“Giống một người nữ từ eo trở lên, tay dài, tóc mềm, cổ và đầu hoàn
toàn giống con người. Đôi tay có vẻ dài và các ngón tay không chỉ trỏ
được, mà nối với nhau vào một cái màng giống như chân vịt. Từ eo trở
xuống sinh vật kì dị này giống như một con cá, với vảy, đuôi và vây.
Sinh vật này thường xuất hiện, đặc biệt là trước các cơn bão lớn. Thói
quen của sinh vật này là thường lặn xuống rồi nổi lên trên mặt biển với
đuôi cá và tay của nó. Khi các thủy thủ nhìn thấy nó chơi đùa với cá,
hay ném chúng vào tàu, họ sợ rằng họ sẽ chắc chắn bị mất một số thủy
thủ; nhưng khi nó bắt cá từ tàu, thì các thủy thủ sẽ coi đó là một điềm
lành và họ sẽ không mất mát trong cơn bão sắp tới. Sinh vật kì dị này có
khuôn mặt rất đáng sợ, với trán rộng và đôi mắt sắc, miệng rộng và cằm
chẻ.”
Năm 1389: Quyển sách
Những chuyến du hành phương Đông (Eastern Travels of John of Hesse) của
John of Hesse được xuất bản, trong đó nhiều nguy hiểm trong suốt chuyến
du hành được kể lại. Có một chỗ tác giả viết: “Chúng tôi đến một vùng
núi đá, nơi chúng tôi nghe thấy những nàng tiên cá ca hát, các nàng tiên
cá đã đưa tàu vào nguy hiểm bởi giọng hát của họ. Chúng tôi nhìn thấy
nhiều sinh vật kỳ quái và đáng sợ.”
Năm 1403: Một người cá trôi dạt vào đất liền qua một
con đê bị vỡ trên bờ biển Hà Lan trong một cơn bão lớn. Cô bị một số phụ
nữ địa phương và những người hầu của họ phát hiện, “Mọi người lúc đầu
sợ cô ấy, nhưng nhìn thấy cô thường xuyên, họ quyết định đưa cô về nhà,
cô chịu mặc áo và ăn bánh mỳ, sữa và các thức ăn khác, và thường cố gắng
trốn xuống biển, nhưng bị theo dõi chặt chẽ nên cô không thể.”
Người cá đó sau đó học cách may vá nhưng không bao giờ nói. Cô đã chết
sau 15 năm bị phát hiện. John Swan, một bộ trưởng Anh, đã mô tả câu
chuyện này trong quyển sách
Speculum Mundi vào năm 1635.
Năm 1493: Christopher Columbus nhìn thấy ba nàng tiên
cá nhảy cao lên từ mặt biển. Columbus đã viết trong cuốn nhật ký tàu của
mình: “Họ không đẹp như tranh vẽ, mặc dù ở một mức độ nào đó, họ có nét
con người trên khuôn mặt.” Ông cũng lưu ý rằng ông đã thấy những sinh
vật tương tự trên bờ biển Tây Phi.
Bức tranh “Các nàng tiên cá” của Jean Francis Auburtin được vẽ vào năm 1920.
Năm 1560: Theo cuốn
Những câu chuyện thần thoại kỳ lạ thời Trung Cổ (Curious Myths of the Middle Ages) của
Sabine Baring-Gould: “Gần đảo Mandar, ở phía Tây của Ceylon (Sri Lanka
ngày nay), một số người đánh cá đã đánh bắt được bảy người cá, mà một số
tu sĩ dòng Tên (chúa Jesus), Cha Henriques và Bosquez, bác sĩ của Tổng
trấn của Goa đã chứng kiến. Vị bác sĩ đã khám nghiệm kỹ càng và giải
phẫu họ. Ông khẳng định rằng cấu trúc bên trong và bên ngoài của người
cá giống với con người.”
Năm 1590: William Shakespeare được cho rằng đã viết
Giấc mộng đêm hè (Midsummer Night’s Dream) khoảng từ năm 1590 đến năm 1594. Trong đó, ông viết:
“Tôi ngồi trên một mũi đất,
Và nghe nàng tiên cá trên lưng một chú cá heo,
Thốt ra những hơi thở êm dịu và hài hòa,
Đến nỗi biển cả dữ dội cũng trở nên hiền hòa trước bài hát của cô;
Và các vì sao mê mẩn trên bầu trời bao la,
Để lắng nghe giọng hát của cô gái biển cả.”
Sau đó, ông viết tiếp. “Đến đây, Puck. Anh có nhớ lần em đang ngồi trên
một bãi đá bên bờ biển khi thấy một nàng tiên cá? Cô ấy đang cưỡi trên
lưng một chú cá heo. Giọng hát của cô rất ngọt ngào và thuần khiết đến
nỗi biển cả dữ dội cũng trở nên yên bình và các vì sao mê mẩn trên bầu
trời khi nghe bài hát của cô gái biển cả.”
Năm 1608: Nhà thám hiểm Henry Hudson đã kể lại một
trải nghiệm trong cuốn nhật ký tàu điều đã xảy ra vào ngày 15 tháng 06,
khi đang lái tàu qua biển Bering ra khỏi Na Uy.